Phòng ngừa đột quỵ thứ phát đề cập đến việc điều trị những người đã bị đột quỵ hoặc cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua. Phương pháp phổ biến nhất là sử dụng thuốc
Các thuốc phòng ngừa đột quỵ thứ phát
Thuốc chống kết tập tiểu cầu: Hiệu quả của thuốc chống kết tập tiểu cầu trong phòng ngừa đột quỵ thứ phát đã được chứng minh rõ ràng. 4 Liệu pháp chống kết tập tiểu cầu nên bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi bị đột quỵ hoặc cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua. 5 Các hướng dẫn hiện hành của Úc khuyến nghị sử dụng aspirin, clopidogrel hoặc kết hợp aspirin và dipyridamol. Dược sĩ Cao đẳng Dược Sài Gòn cho biết thuốc chống kết tập tiểu cầu mang một số nguy cơ xuất huyết tiêu hóa. Việc sử dụng thường quy thuốc ức chế bơm proton bị hạn chế đối với những người được coi là có nguy cơ cao hơn, ví dụ như bệnh nhân có tiền sử loét đường tiêu hóa hoặc những người trên 60 tuổi bị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản.
Aspirin/Dipyridamole: Dipyridamole không nên được sử dụng một mình trong dự phòng đột quỵ. Trong các thử nghiệm, nó được kết hợp với aspirin, điển hình là aspirin 25 mg và dipyridamole 200 mg. Đây là phối hợp kháng tiểu cầu có thể chấp nhận được đối với bệnh nhân đột quỵ do thiếu máu cục bộ không do tim mạch hoặc cơn thoáng thiếu máu cục bộ.
Chất ức chế P2Y 12: Clopidogrel, một chất ức chế P2Y 12, có hiệu quả phòng ngừa đột quỵ thứ phát ở liều 75 mg. Một phân tích tổng hợp năm 2019 đã tìm thấy lợi ích của clopidogrel so với aspirin và aspirin/dipyridamole trong việc giảm chảy máu lớn và xuất huyết nội sọ
Thuốc chống đông máu: Thuốc chống đông máu đường uống trực tiếp hiện nay được ưa chuộng hơn warfarin để phòng ngừa đột quỵ thứ phát. Điều này là do một phân tích tổng hợp cho thấy khả năng phòng ngừa đột quỵ do thiếu máu cục bộ kém hơn và tỷ lệ đột quỵ xuất huyết không thua kém. 27 Warfarin có một số ưu điểm về nguy cơ xuất huyết tiêu hóa, và cũng có thể được sử dụng cho những bệnh nhân có mức lọc cầu thận ước tính (eGFR) dưới 15 mL/phút. Việc lựa chọn thuốc chống đông đường uống trực tiếp được cá nhân hóa dựa trên chức năng thận, khả năng tuân thủ lịch dùng thuốc và khả năng cần đảo ngược thuốc kháng đông.
Kiểm soát huyết áp: Thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn kênh canxi và thuốc lợi tiểu thiazide là những lựa chọn hàng đầu để kiểm soát huyết áp sau đột quỵ. 36 Sự lựa chọn nên được cá nhân hóa cho từng bệnh nhân. Một phân tích tổng hợp lớn về kết quả tim mạch cho thấy thuốc chẹn beta có thể kém hơn các thuốc hạ huyết áp khác trong việc phòng ngừa đột quỵ.
Quản lý Cholesterol: Statin liều cao, chẳng hạn như atorvastatin 80 mg hoặc rosuvastatin 40 mg, là điều trị đầu tay cho tất cả bệnh nhân sau đột quỵ do thiếu máu cục bộ bất kể mức cholesterol của họ. 3 Điều này là do một phân tích tổng hợp cho thấy statin liều cao có tác dụng bảo vệ chống lại các cơn đột quỵ do thiếu máu cục bộ ngay cả khi cholesterol không tăng.
Kết luận
Theo bác sĩ Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn sau đột quỵ, bệnh nhân có nguy cơ bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ nhiều hơn, đặc biệt là trong vài tuần đầu tiên. Thuốc chống kết tập tiểu cầu, statin và thuốc hạ huyết áp là nền tảng của dược liệu pháp để phòng ngừa đột quỵ thứ phát. Nếu liệu pháp kháng tiểu cầu kép được sử dụng sau đột quỵ, bác sĩ lâm sàng nên đảm bảo bệnh nhân trở lại điều trị bằng thuốc đơn ba tuần sau đó. Bệnh nhân rung nhĩ cần được kháng đông. Nên tránh kết hợp thuốc chống đông máu và thuốc chống kết tập tiểu cầu nếu có thể. Liên lạc với bác sĩ thần kinh và bác sĩ tim mạch của bệnh nhân nếu bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông máu và kháng tiểu cầu để xác nhận xem có dự định điều trị kết hợp hay không.
Huyết áp mục tiêu phải nhỏ hơn 140 mmHg tâm thu. Có thể dùng thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn kênh canxi hoặc thuốc lợi tiểu thiazide. Statin là phương pháp điều trị đầu tay và hiện nay khuyến cáo sử dụng lipoprotein mật độ thấp mục tiêu dưới 1,8 mmol/L.