Tính an toàn của siêu âm thai trong ba tháng đầu thai kỳ cần được các mẹ bầu cân nhắc lợi ích và nguy cơ và bác bỏ quan điểm là siêu âm hoàn toàn vô hại với thai nhi.
Tác động sinh học và tính an toàn của siêu âm?
Bác sĩ giảng viên Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn siêu âm là một dạng năng lượng và đường ra của nó thay đổi tùy theo chế độ được sử dụng. Khi sóng siêu âm lan truyền trong mô, sự hấp thụ năng lượng làm cho giải phóng nhiệt, được gọi là hiệu ứng nhiệt của siêu âm. Sự lan truyền của dạng sóng siêu âm trong mô cũng tạo ra tác động cơ học trực tiếp từ chuỗi áp lực dương và áp lực âm. Tác động nhiệt và tác động cơ học của siêu âm phản ánh bằng hai chỉ số quan trọng đo lường ảnh hưởng sinh học của siêu âm: chỉ số nhiệt (TI) và chỉ số cơ học (MI). MI đưa ra ước tính về hiệu ứng tạo bọt của sóng siêu âm, đây là kết quả từ sự tương tác của sóng âm với các bóng khí siêu nhỏ ổn định trong mô. TI là công cụ dự báo về mức tăng nhiệt độ tối đa trong các điều kiện liên quan về mặt lâm sàng và được định nghĩa là tỷ số giữa công suất sử dụng trên công suất cần thiết để làm cho nhiệt độ tăng lên 1 °C. TI được báo cáo ở ba dạng – Chỉ số nhiệt mềm (TIS) mô giả định sóng âm lan truyền trong mô mềm và thường hữu ích trong ba tháng đầu; chỉ số nhiệt xương (TIB) giả định sóng âm tại hoặc gần xương, hữu ích trong giai đoạn cuối ba tháng giữa và ba tháng cuối; chỉ số nhiệt sọ (TIC) giả định rằng xương sọ nằm trong vùng gần với chùm sóng âm, được sử dụng khi thăm khám ở người lớn. Các tác động năng lượng khác của siêu âm bao gồm hiệu ứng vật lý (sóng xung kích) và hóa học (giải phóng các gốc tự do) trong mô.
Theo giảng viên bác sĩ đang giảng dạy Cao đẳng Y dược Sài Gòn trong thăm khám sản khoa, hiệu ứng nhiệt (TI) của siêu âm được quan tâm hơn là hiệu ứng cơ học (MI). Tình trạng tăng nhiệt độ đã được chứng minh là yếu tố gây dị tật tác động lên phôi đang phát triển ở nhiều loài khác nhau.4,5 Vì hiệu ứng nhiệt nhiệt dẫn đến tăng nhiệt độ mô được siêu âm, nên thận trọng để hạn chế tiếp xúc với phôi và thai nhi, trong thời gian tối thiểu cần thiết cho mục đích chẩn đoán và lợi ích cho bệnh nhân luôn phải lớn hơn nguy cơ. Đề xuất ngưỡng chung là 1.5 °C trên mức sinh lý bình thường là ngưỡng an toàn để chẩn đoán.
Năm 1992, tất cả các thiết bị siêu âm chẩn đoán yêu cầu tiêu chuẩn hiển thị đầu ra (ODS). Trong ODS này, nhà sản xuất cần phải hiển thị theo thời gian thực TI và MI trên màng hình siêu âm với mục đích giúp cho người làm nhận biết tác động sinh học của việc kiểm tra siêu âm . Người sử dụng máy phải lưu ý về năng lượng đầu ra và đảm bảo duy trì ở mức hợp lý. Mặc dù chưa có những nghiên cứu dịch tễ xác nhận tác động sinh học xấu từ việc tiếp xúc với siêu âm chẩn chẩn đoán, lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của việc kiểm tra siêu âm phải được đánh giá và luôn tuân thủ nguyên tắc ALARA (ở mức độ thấp có thể chấp nhận được), đặc biệt là điều chỉnh kiểm soát thiết bị siêu âm để giảm thiểu nguy cơ. Điều này ngụ ý rằng công suất siêu âm nên giữ ở mức thấp nhất có thể và thời gian siêu âm tiếp xúc càng ngắn càng tốt theo mục đích thăm khám siêu âm. Luôn theo dõi giá trị TI và MI trên màn hình siêu âm, và giữ TI và MI nhỏ hơn 1 khi siêu âm sản khoa.
Cân nhắc với nguy cơ khi thực hiện siêu âm ở tuổi thai sớm
Tác động sinh học và tính an toàn của siêu âm là một chủ đề quan trọng, đặc biệt khi liên quan đến sự phát triển phôi và thai nhi trong giai đoạn thai sớm. Nguyên tắc hướng dẫn về chủ đề này đề xuất rằng lợi ích của siêu âm phải luôn được cân nhắc với nguy cơ khi thực hiện siêu âm ở tuổi thai sớm. Đường ra sóng âm của B-mode và M-mode thường không đủ cao để gây ra các tác động có hại. Do đó, việc sử dụng chúng dường như an toàn cho tất cả các giai đoạn của thai kỳ.7Tuy nhiên Doppler xung tập trung năng lượng chùm sóng âm lên mục tiêu giải phẫu nhỏ và vì thế không nên sử dụng thường xuyên trong ba tháng đầu.8 Việc sử dụng nó trong ba tháng đầu nên được giới hạn trong các tình huống lâm sàng có lợi ích mang lại cho thai rõ ràng. Khi thực hiện siêu âm Doppler, TI hiển thị ≤ 1.0 và không quá 60 phút. Việc sử dụng siêu âm 3D và 4D nói chung có liên quan đến TI thấp, có thể so sánh với B-mode và được xem là an toàn như B-mode khi kiểm tra sản khoa.9
Chuyên gia ngành kỹ thuật hình ảnh y học khuyến nghị nên sử dụng M-mode trước khi muốn ghi nhận tần số tim thai bằng hệ thống siêu âm chẩn đoán, vì cường độ âm trung bình theo thời gian truyền đến thai nhi với M-mode thấp hơn so với Doppler xung.Nếu không thành công, siêu âm Doppler xung có thể được sử dụng với các hướng dẫn sau: sử dụng Doppler xung trong thời gian ngắn (chẳng hạn 4 đến 5 nhịp tim) và giữ TI (TIS đối với mô mềm trong ba tháng đầu) thấp nhất có thể, tốt hơn dưới 1 phù hợp theo nguyên tắc ALARA. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là dữ liệu hoạt động tim thai ở thai kỳ sớm cũng có thể có được bằng cách lưu một đoạn phim B-mode.
Không có xác nhận độc lập nào về các tác dụng phụ gây ra do tiếp xúc với thiết bị siêu âm chẩn đoán hiện nay, được báo cáo ở những người không tiêm chất cản âm. Tác động sinh học (như xuất huyết phổi khu trú) được báo cáo ở những động vật có vú khi tiếp xúc liên quan đến chẩn đoán,nhưng ý nghĩa lâm sàng của những tác động đó vẫn chưa được biết rõ.