Ung thư phổi có tỉ lệ gây chết cao hơn bất kỳ ung thư nào khác. Đa số ung thư phổi khởi đầu một cách thầm lặng, không triệu chứng.cho đến khi được phát hiện.
Hút thuốc lá là nguyên nhân chính gây ra ung thư phổi
Ung thư phổi là gì?
Ung thư phổi là căn bệnh trong đó xuất hiện một khối u ác tính do sự tăng sinh tế bào không thể kiểm soát trong các mô phổi.Thời gian để 1 tế bào ung thư phát triển đến đủ lớn để được chấn đoán và gây ra triệu chứng phải mất khoảng 10 đến 40 năm. Phần lớn ung thư phổi được phát hiện tương đối trễ.
Nguyên nhân ung thư phổi
Nguyên nhân chính gây ung thư phổi là do thuốc lá. Có trên 2000 tác nhân sinh ung thư được biết trong khói thuốc lá. Những tế bào ở người bình thường sẽ thay đổi thành ung thư khi tiếp xúc với chất sinh ung thư như radon, asbestos, nickel, bischolomethylether, chromates, bột than, những chất có hoạt tính phát xạ và arsenic.
Các bác sĩ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn cho rằng nghề nghiệp là yếu tố ảnh hương tới việc gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Chẳng hạn như công nhân đập đá, công nhân đúc, những người làm việc trong nhà máy khí công nghệ, thuốc, xà phòng, thuốc sinh màu vô cơ, nhựa và cao su tổng hợp.
Nguy cơ ung thư phổi cũng gia tăng theo liều lượng tiếp xúc chất sinh ung. Ví dụ nguy cơ ung thư phổi cũng tăng, ti lệ thuận với số điếu thuốc được hút. Người hút thuốc lá có nguy cơ từ 8-20 lần so với người không hút thuốc. Nhiều chất sinh ung cùng tác động trên một cơ thể thì càng gia lăng nguy cơ ung thư phổi.
Nguy cơ ung thư phổi gia tăng ở những người sống thành thị cao hơn so với người sống ở miền quê.Cũng có sự gia tăng ung thư phổi trong những người vừa hút thuốc lá và có bà con gần bị ung thư. Sẹo do nhiễm trùng hoặc chấn thương trước đó cũng liên quan đến ung thư phổi.
Các loại ung thư phổi
Ung thư phổi được sắp xếp thành loại tế bào nhỏ và tế bào không nhỏ. Loại tế bào không nhỏ thì được phân chia thành carcinom tuyến, phế quản phổi, tế bào gai và tế bào lớn.
Xấp xỉ 75-85% ung thư phổi là tế bào không nhỏ và 15 - 25 % là loại tế bào nhỏ.
Ung thư tế bào không nhỏ của phổi
Ở Mỹ, carcinoma tuyến là loại ung thư tế bào không nhỏ thường gặp nhất. Phần lớn ung thư này phát triển ngoại vi cùa phổi. Vì ở ngoại vi nên loại này thường không có triệu chứng cho đến khi chúng được phát hiện trên phim X quang ngực. Loại này thường có xu hướng di căn đến phần khác cùa cơ thể như xương, hệ thần kinh trung ương (não và tuỷ sống), tuyến thượng thận, gan và phổi đối diện.Thường có sẹo trong carcinoma tuyến. Đôi khi ung thư phát triển trong những vùng sẹo cũ của phổi. Trong những trường hợp khác thì sẹo xuất hiện sau khi ung thư phát triển.
Carcinoma phế quản phổi là carcinom tế bào không nhỏ được tìm thấy trên khắp đường hô hấp. Khi được phát hiện nếu là một khối đơn độc trên film X quang phổi thì tiên lượng tốt. Ti lệ sống còn 5 năm sau phẫu thuật là 75- 90 %. Tuy nhiên, nếu nó xuất hiện dưới dạng lan tỏa thì tiên lượng xấu.
Carcinoma tế bào gai chiếm tỉ lệ 30-40 % của loại carcinom tế bào không nhỏ. Loại này có xu hướng ở trung tâm của phổi, thường trong khí quản. Vì những ung thư này nằm gần hoặc trong khí đạo nên chúng thường gây triệu chứng sớm. Ho đàm máu là triệu chứng thường nhất. Ung thư có thể gây tắt khí đạo làm khó thở và viêm phổi.
Carcinoma tế bào lớn chiếm khoảng 10% của loại tế bào không nhỏ. Loại ung thư này thường có ít đặc điểm riêng biệt về cấu trúc khi xem dưới kính hiển vi. Rất khó để phân biệt với loại ung thư di căn từ nơi khác đến phổi.
Ung thư tế bào nhỏ của phổi
Đây là loại nặng nhất và tiên lượng xấu nhất của phổi. Loại này thường có xu hướng phát triển nhanh và di căn sớm đến các phần khác cùa cơ thể, theo các giảng viên Cao đẳng Kỹ thuật hình ảnh Sài Gòn thường thấy là một khối nằm ở trung tâm của phổi trên phim X quang. Tổn thương nguyên phát gieo rắc đến hạch bạch huyết của ngực và vào máu đi đến các phần khác của cơ thể như gan, não, tuỷ sổng thận, tụy và tuyến thượng thận.
Hiếm khi loại này được điều trị bằng phẫu thuật vì ung thư nguyên phát quá lớn khi phát hiện hoặc đã bị di căn. Tuy nhiên loại này đáp ứng tốt với xạ trị và hoá trị.
Triệu chứng của bệnh nhân ung thư phổi là gì?
Loại tế bào gai và tế bào nhỏ có thể gây ra ho, thở nông, đàm máu, đau ngực, khò khè hoặc viêm phổi. Carcinoma tế bào tuyến thường ở phần ngoài của phổi và gây nên đau ngực khi thờ, ho hoặc thở nông. Đa số bệnh nhân không triệu chứng khi bịnh được phát hiện đầu tiên trên phim X quang ngực.
Carcinoma tế bào nhỏ và tế bào tuyến của phổi được phát hiện đầu tiên với triệu chứng của bệnh di căn. Điều này có nghĩa là triệu chứng liên quan đến nơi mà ung thư di căn đến, không nhất thiết tại phổi.
1. Xét nghiệm đàm tìm tế bào ung thư. Đàm được tập trung sau ba ngày thì tỉ lệ dương tính cao hơn 1 ngày.
2. Soi phế quản bằng ống mềm nhỏ bàng cách xuyên qua mũi vào khí quản để phát hiện tế bào ung thư, đồng thời sinh thiết. Lấy mẫu bằng cách dùng bàn chải chải lên sang thưong hoặc là dùng kim chích vào sang thưong để lấy mẫu đem thử.
3. Sinh thiết bằng kim qua da bàng cách đưa kim nhỏ qua da và thành ngực để đến sang thưomg. Điều này có ích đối với bề mặt của phổi. Sự tiếp cận này được hỗ trợ bàng cách sử dụng scan CAT để hướng dẫn kim chính xác hơn. Trong một số nhỏ trường hợp, rò khí có thể xảy ra. Điều này thường tự giới hạn và chỉ 5% trường hợp cần thiết dẫn lưu ngực để hút.
4. Phẫu thuật vứt bỏ những khối nghi ngờ có thể giúp chẩn đoán. Điều này có thể thực hiện qua vết rạch nhỏ ở ngực hoặc soi ngực.
Hóa trị liệu là dùng thuốc để giết tế bào ung thư.. Loại ung thư tế bào nhỏ của phổi có tì lệ thành công cao với hoá trị liệu đặc biệt khi chỉ khu trú ở ngực.
Trong những trưòng hợp ung thư những tế bào không nhỏ của phổi thì hoá trị liệu có thể được sừ dụng một mình hoặc là kết hợp với xạ trị.