Đái tháo đường thai kỳ là tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bất kỳ mức độ nào, được phát hiện trong thời kỳ mang thai. Vậy có cách nào phát hiện bệnh đái tháo đường?
Đái tháo đường thai kỳ thường tự động biến mất sau khi bé chào đời
Người phụ nữ mang thai khi được chẩn đoán mắc bệnh đái tháo đường rất dễ bị sang chấn tinh thần vì lo sợ. Tuy nhiên, không như các dạng đái tháo đường khác, đái tháo đường thai kỳ thường tự động biến mất sau khi bé chào đời. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về đái tháo đường thai kỳ qua bài phỏng vấn các bác sĩ, chuyên gia đến từ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn.
Đái tháo đường thai kỳ là gì?
Đái tháo đường thai kỳ là tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bất kỳ mức độ nào, được phát hiện trong thời kỳ mang thai. Có thể nói, đái tháo đường thai kỳ chính là một thể bệnh đái tháo đường, chỉ xuất hiện và tồn tại trong thời gian người phụ nữ mang thai. Đái tháo đường thai kỳ khởi phát trong khi có thai và tự khỏi sau khi sinh. Nếu trong vòng 6 tuần sau khi sinh, người mẹ đái tháo đường thai kỳ chưa khỏi bệnh thì lúc này không được chẩn đoán là đái tháo đường thai kỳ nữa mà thuộc thể bệnh đái tháo đường týp 1, týp 2, đái tháo đường do dinh dưỡng hoặc đái tháo đường triệu chứng. Có nghĩa là chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ một cách chắc chắn nhất đó là chẩn đoán hồi cứu sau khi sinh 6 tuần.
Những ai có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ?
Theo các chuyên gia Trường Cao Dẳng Dược Sài Gòn cho biết những phụ nữ có nguy cơ cao nhất là những người đang mắc bệnh đái tháo đường hoặc đã từng mắc đái tháo đường thai kỳ trong lần mang thai trước đó hay những người sinh 1 hay nhiều con có trọng lượng “đáng nể” khi mới chào đời. Những phụ nữ thừa cân và những phụ nữ từng sảy thai hay tiền sản giật cũng có nguy cơ cao mắc đái tháo đường thai kỳ.
Ngoài ra, những phụ nữ sau cũng có nguy cơ:
- Những bà mẹ lớn tuổi (có khuynh hướng phát triển bệnh đái tháo đường do tuổi tác).
- Những người phụ nữ mắc bệnh huyết áp cao.
- Những phụ nữ mà từng có trọng lượng “khủng” sau sinh (nặng hơn 4kg so với ban đầu).
- Những phụ nữ mà có cha/mẹ hay anh/chị em ruột đã từng phải tiêm insulin bổ sung.
Làm thế nào để phát hiện đái tháo đường thai kỳ?
Đái tháo đường thai kỳ rất khó phát hiện nếu không làm xét nghiệm máu hoặc không làm nghiệm pháp dung nạp glucose vì bệnh thường không có các triệu chứng hay các dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài. Bởi vậy, tất cả phụ nữ mang thai đều cần phải khám sàng lọc đái tháo đường thai kỳ. Trước đây, việc sàng lọc dựa vào kết quả xét nghiệm nước tiểu, theo kết quả này thì sẽ không chính xác vì nhiều phụ nữ mang thai không bị đái tháo đường thai kỳ mà vẫn có đường niệu dương tính. Mặt khác những người đái tháo đường thai kỳ cũng có những lúc không có đường trong nước tiểu.
Bạn sẽ phải nhịn ăn trong ít nhất 6 giờ trước khi thực hiện xét nghiệm. Lúc đó, y tá sẽ lấy máu. Mẫu máu đầu tiên sẽ được dùng để đo mức đường huyết trong máu khi bạn đang nhịn ăn.
Sau đó, bạn sẽ được uống một cốc nước đường, khi đường ngấm vào máu, bạn sẽ được lấy máu lần 2 để đo mức đường huyết rồi so sánh với mức đường huyết trong mẫu máu lần đầu.
Đái tháo đường thai kỳ có nguy hiểm không?
Rất có thể bạn sẽ đưa ra một câu hỏi cho chúng tôi rằng đái tháo đường thai kỳ tự khỏi, như vậy có cần phải phát hiện và can thiệp không? Chúng tôi xin trả lời với bạn là rất cần. Nếu không có sự “rất cần” này thì hậu quả của đái tháo đường thai kỳ đối với người mẹ và thai nhi sẽ trở nên rất nghiêm trọng - nghiêm trọng trong quá trình mang thai, trong lúc sinh và ngay cả cuộc sống sau này.
Theo các bác sĩ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn: Tăng đường máu trong thời kỳ mang thai sẽ làm tổn hại đến thai nhi, gây ra những bất thường bẩm sinh, thai to hoặc gây sảy thai. Trong 6 tháng cuối của thời kỳ mang thai, nếu người mẹ bị tăng đường huyết thì cũng gây tăng đường huyết cho thai nhi và gây tăng insulin ở thai nhi. Sau khi sinh, do trẻ không nhận được lượng đường nhiều như khi còn đang ở trong tử cung của mẹ nữa, sự dư thừa insulin sẽ làm cho đường máu của trẻ thấp dưới mức bình thường. Hạ đường huyết ở trẻ rất dễ gây tổn thương các tế bào thần kinh não bộ nếu không được điều trị kịp thời. Thai của những người mẹ đái tháo đường có xu hướng to hơn bình thường nên rất dễ có nguy cơ bị đẻ non. Do đẻ non nên trẻ có nhiều nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp, đặc biệt là hội chứng suy hô hấp trẻ sơ sinh.
Tăng đường huyết ở phụ nữ mang thai sẽ gây nên tiền sản giật (tăng huyết áp, phù...) nếu không kiểm soát tốt đường huyết. Tăng huyết áp ở mẹ sẽ de dọa đến tính mạng của cả mẹ và thai nhi. Đái tháo đường thai kỳ có thể làm tăng nồng độ xê-tôn máu của người mẹ, bởi vậy mà thai nhi cũng bị tăng xê-tôn máu - một yếu tố không thuận lợi cho sự phát triển bình thường của thai nhi.