Viêm tụy cấp là tình trạng viêm của tuyến tụy dẫn đến tổn thương tế bào nang tuyến do sự tiêu hủy của các men tụy. Viêm tụy cấp ở trẻ em thường có liên quan đến nhiều tình trạng bệnh lý khác nhau. Diễn tiến viêm tuỵ cấp có thể nhẹ, tự khỏi cho đến thể nặng gây nguy hiểm đến tính mạng do các biến chứng.
Các biểu hiện của bệnh viêm tụy cấp
Bệnh nhân bị viêm tụy cấp sẽ có các biểu hiện lâm sàng nào?
Một số biểu hiện lâm sàng được các bác sĩ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn chỉ ra đó là: Bệnh nhân bị đau bụng, đau thường xảy ra bất ngờ, đau tăng dần và có thể đau dữ dội vài giờ sau, thường khu trú vùng thượng vị, quanh rốn, ¼ bụng trên phải, đau có thể lan ra sau lưng, đau tăng lên sau khi ăn. Tư thế giảm đau khi nằm nghiêng, mông và gối gập vào bụng hoặc ngồi thẳng lưng. Nôn ói xảy ra trong đa số các trường hợp (70%) và ói vẫn không làm giảm đau. Nếu không tìm được nguyên nhân gây ói, cần nghĩ đến viêm tụy. Cần chú ý đến những bệnh lý, đang dùng các thuốc có thể là nguyên nhân gây viêm tụy cấp.
Thăm khám ấn đau vùng thượng vị, có thể lan ra sau lưng. Nhu động ruột giảm hoặc liệt ruột. Vàng da nhẹ có thể xảy ra trong viêm tụy tự phát, nhưng vàng da nặng hoặc trung bình gợi ý viêm tụy do sỏi mật.
Tìm dấu hiệu viêm tụy cấp nặng: Vẻ mặt nhiễm độc, nhiễm trùng. Dấu mất nước. Dấu hiệu sốc. Suy hô hấp. Da đổi màu xanh tím vùng quanh rốn (dấu Cullen), hoặc da đổi màu xanh tím vùng hông (dấu Grey Turner) trong viêm tụy thể xuất huyết. Tràn dịch màng phổi.
Cần làm các cận lâm sàng nào trong trường hợp bệnh nhân bị viêm tụy cấp?
Cận lâm sàng: Công thức máu có Hct tăng, có thể giảm do xuất huyết, bạch cầu tăng.
Amylase máu thường tăng trên 3 lần trị số bình thường tối đa và tồn tại trong 3 – 5 ngày, tuy nhiên mức độ tăng có thể không tương ứng với mức độ nặng của bệnh. Khoảng 10–15% trường hợp viêm tụy cấp amylase máu có thể bình thường lúc khởi đầu. Amylase nước tiểu tăng và tồn tại hơn 2 tuần, có giá trị khi amylase máu tăng chưa đến 3 lần.
Lipase máu tăng gấp 3 lần bình thường, có độ đặc hiệu cao hơn amylase máu, nên đo lipase máu trong trường hợp nghi ngờ viêm tụy mà amylase máu bình thường (chưa thực hiện được).
Ion đồ, đường huyết, triglyceride, LDH, urê, creatinin. Khí máu trong trường hợp bệnh nặng.
Theo các bác sĩ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn cho biết: Siêu âm bụng có vai trò lớn trong chẩn đoán và theo dõi bệnh. Siêu âm có thể thấy tuyến tụy lớn, phù nề, bờ không rõ, giảm mật độ echo, có thể có dịch hoặc áp xe. Khoảng 20% trường hợp viêm tụy cấp có thể bình thường dưới siêu âm lúc khởi đầu. Cấy máu khi nghi ngờ nhiễm trùng hoặc khi có hoại tử tụy.
Các xét nghiệm tìm nguyên nhân khác. X-quang bụng không sửa soạn khi cần loại trừ tắc ruột, thủng ruột.
CT scanner trong trường hợp có chấn thương bụng, hoặc để đánh giá độ nặng, biến chứng.
Chẩn đoán xác định khi có 2 trong 3 tiêu chuẩn sau: Đau bụng kiểu viêm tụy cấp. Amylase máu và/hoặc lipase máu tăng gấp 3 - 4 lần bình thường. Hình ảnh siêu âm hoặc CT scan của viêm tụy cấp.
Nguyên tắc điều trị bệnh là gì và bệnh được điều trị ra sao?
Cho tụy nghỉ ngơi và ngăn cản quá trình tự tiêu hủy tuyến tụy.
Điều chỉnh rối loạn nước, điện giải và thăng bằng kiềm toan.
Điều trị nguyên nhân nếu có.
Theo dõi sát, phát hiện sớm các biến chứng.
Chỉ định ngoại khoa kịp thời.
Xử trí đặc hiệu: Để giảm đau tốt nhất các Dược sĩ Trường Cao Đẳng Dược Sài Gòn khuyên dùng Meperidin (Demerol) 1 - 1,8 mg/kg/liều TM, TB, tiêm dưới da, có thể lặp lại sau 3 - 4 giờ, không quá 100 mg/liều. Nếu không có Meperidin, có thể dùng Dolargan (Pethidin) hoặc Fentanyl. Không dùng Morphin vì gây co thắt co vòng Oddi. Nhịn ăn hoàn toàn, nuôi ăn qua đường tĩnh mạch. Đặt sonde hút dịch dạ dày (nhất là ở những bệnh nhân có ói). Bù dịch điện giải bằng truyền tĩnh mạch dung dịch Dextrose 5% 1/4 hoặc Dextrose 5% 1/2 NS + K 20 mEq/L. Liều ban đầu thường 1,5 nhu cầu duy trì nếu tim phổi ổn định. Ranitidin TM 2 - 4 mg/kg/lần mỗi 8 giờ, tối đa 50 mg/liều, không dùng đối với thể nhẹ. Kháng sinh trong trường hợp nặng, xem xét trong trường hợp trung bình. Không chỉ định trong trường hợp nhẹ. Cho bệnh nhân nằm yên tại chỗ.
Nếu đáp ứng tốt: lâm sàng cải thiện thường từ 2 đến 4 ngày sau, hết ói, đau bụng giảm dần và hết hẳn, amylase máu tăng qua đỉnh và giảm dần, có thể cho chế độ ăn bắt đầu bằng carbonhydrat như nước đường. Nếu lâm sàng ổn định và amylase máu không tăng lại thì chuyển dần dần sang nước cháo sang cháo đường sang sữa đạm thủy phân sang cháo thịt nạc sang cháo thịt có dầu mỡ.
Nếu đáp ứng không tốt: sau 3 ngày điều trị bệnh nhân vẫn tiếp tục đau bụng, sốt, tiền sốc, nhiễm trùng nhiễm độc, xuất hiện dấu Cullen, Grey-Turner, amylase tăng kéo dài, đường huyết tăng, bạch cầu tăng, hạ calci máu cần lưu ý các biến chứng viêm tụy xuất huyết hoại tử, u nang giả tụy, áp xe tụy, siêu âm kiểm tra và hội chẩn ngoại khoa, cho kháng sinh khi có hoại tử tụy hoặc nghi ngờ áp xe tụy. Kháng sinh vào mô tụy tốt là nhóm Imipenem.